Mutual Fund vs Index Fund vs ETF khá giống nhau, nhưng một vài khác biệt nhỏ có thể có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà đầu tư.
1. Mutual fund
Định nghĩa và khái niệm
Đây là một loại hình đầu tư được cấu thành bằng hàng trăm hoặc hàng ngàn các gói đầu tư con, từ stock tới bond. Loại stock hoặc bond nào và bao nhiêu share hoặc bao nhiêu giá trị được quyết định bởi fund manager. Lợi suất của mutual fund dựa vào quyết định đầu tư có đúng đắn không của đội ngũ quản lý. Để đổi lại công sức quản lý này, họ nhận lương và bonus. Cũng như dùng tiền trong fund để thuê mặt bằng và nói chung là điều hành một doanh nghiệp nhằm quản lý fund cho bạn.
Khi bạn mua cổ phần của mutual fund, bạn mua trực tiếp từ fund manager. Khi bạn bán fund, bạn sẽ bán lại cho fund manager.
Mutual fund được bắt buộc phải trả dividend cho shareholder, cũng như stock vậy. Điểm đặc biệt là khi mutual fund trả dividend, bạn có thể lựa chọn để dividend này được dùng để mua tiếp share ngay lúc đó chứ không để tiền nằm yên như stock dividend. Mỗi khi fund trả dividend, thì giá trị mà bạn nắm giữ vẫn như cũ. Chỉ có điều bạn nắm nhiều share hơn và giá trị của mỗi share giảm xuống.
Mua bán cổ phần của mutual fund
Nếu nhiều người mua hơn là người bán, thì fund manager sẽ cần thêm share để bán ra thêm. Nếu họ có share dự trữ thì sẽ dùng share đó bán ra. Nếu không có, thì họ phải dùng tiền để đi mua thêm stock và bond với tỷ lệ gần giống như tỷ lệ của các stock và bond hiện có trong fund để đảm bảo giá trị của từng share không bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, khi người bán nhiều hơn người mua, thì fund manager phải thu share vào. Nếu họ có cash trong tay, thì họ sẽ dùng cash đó để thu share vào và đợi để bán ra như ở trên đã nói. Tuy nhiên, nếu họ không có cash trong tay, thì họ có khả năng phải làm điều ngược lại như ở trên. Đó là bán stock và fund ra theo tỷ lệ gần giống như tỷ lệ tổng quát để tránh làm thay đổi giá trị của từng share. Khi họ bán stock và bond ra như vậy, thì bản thân họ sẽ gây ra capital gain. Capital gain này sẽ được chia đều cho các shareholder, dẫn đến họ phải trả thuế.
Hỗn hợp dividend và capital gain khiến cho shareholder của mutual fund phải trả thuế thường xuyên hơn ETF.
Giá trị của mutual fund được định ra bởi fund manager
Đó là giá trị của tất cả stock và bond được cộng chung vào cuối ngày, trừ ra các chi phí điều hành. Do giá trị được định ra mỗi ngày như vậy nên bạn phải chờ vào cuối ngày mới có thể bán hoặc mua share. Ngoài ra, cho dù các stock và bond có nhiều rủi ro tới đâu, đến cuối ngày bạn vẫn có thể thấy được giá trị thật của chúng.
Do sự thay đổi về giá trị của share bị ảnh hưởng bởi chi phí điều hành. Bạn sẽ không thấy được các chi phí này được trừ ra từ fund. Ví dụ như bạn có $10k trong fund với 0.1% expense ratio. Bạn sẽ không bao giờ có thể thấy được $10 expense vì $10 này đã được trừ ra và làm giảm đi giá trị của share bạn đang nắm. Bạn chỉ có thể trông vào statement của management để xem chi phí.
2. ETF
ETF cũng như mutual fund ở chỗ nó nắm nhiều stock và bond, cũng như được quản lý bởi một đội ngũ quản lý và cũng có chi phí quản lý.
Tuy nhiên, ETF khác mutual fund ở chỗ ETF na ná stock. ETF được phát hành ở primary market và được trao đổi mua bán giữa các shareholder với nhau ở secondary market. Khi đội ngũ quản lý muốn bán thêm share, họ sẽ thu mua stock và fund trước, đóng gói lại và bán ra. Ngược lại, khi họ muốn làm giảm share, họ thu mua lại share với tư cách một nhà đầu tư thông thường và sau đó bán stock và bond ra.
Phần lớn các cuộc giao dịch ETF diễn ra giữa các nhà đầu tư nên đội ngũ quản lý không cần phải bán stock và bond ra. Không có capital gain. ETF cũng không có dividend. 2 điều này dẫn đến ETF không phải trả thuế thường xuyên như mutual fund.
ETF được trao đổi mua bán như stock.
Do đó bạn có thể bán trong giờ hành chánh và bán ngay lập tức nếu bạn muốn. Cũng có thể bán after hour. Điều này dẫn tới khả năng linh hoạt cao cho các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, ETF cũng có điểm hại. Điểm hại này thấy rõ nhất đối với các ETF niche như là các công ty rất đặc biệt, hoặc crypto. Do giá trị của ETF được định ra bởi con số các nhà đầu tư mua vào vs các nhà đầu tư bán ra. Do đó, khi stock và bond của các công ty không nổi tiếng lắm thay đổi giá trị, các nhà đầu tư vào các ETF có chứa các bond và stock này lại tiếp tục speculate thêm một lần nữa, dẫn đến giá trị của ETF thay đổi nhanh hơn là giá trị của các stock và bond bên trong. Nếu bạn đầu tư vào một ETF phổ biến thì sẽ không phải chịu điểm hại này.
** nếu bạn mua ETF và mutual fund trong các tài khoản hưu trí thì không phải lo về thuế nên 2 món này trở nên rất giống nhau.
3. Actively managed vs passively managed funds
Actively managed là các fund có manager trực tiếp chọn stock và bond để mua. Passively managed funds là sử dụng computer để ra quyết định. Do computer tốn ít tiền để duy trì hơn là nhân lực, nên passively managed fund sẽ có chi phí thấp hơn là actively managed fund. Do computer hiện nay rất mạnh về mảng phân tích thị trường nên chưa chắc máy quản lý đã tồi hơn người quản lý. Với chi phí thấp, passively managed fund được nhiều người ưa thích. Những người mất niềm tin và các *chuyên gia* tài chính cũng ưa thích passively managed fund hơn vì họ tin vào máy móc hơn là tin vào con người. Cho dù con người có thành thật đi chăng nữa, có lúc họ cũng phạm sai lầm. Đó là cách suy nghĩ của những người này.
Cho dù là mutual fund hay ETF thì vẫn có thể được người hoặc máy quản lý. Do đó, không hẳn là cứ hễ là ETF là sẽ tốn ít chi phí hơn mutual fund. Nếu bạn so sánh một actively managed ETF với một passively managed mutual fund, thì ETF vẫn tốn nhiều chi phí hơn. Tuy nhiên, nhìn chung là ETF rẻ tiền hơn mutual fund do đội ngũ quản lý không cần phải mua hoặc bán stock và bond quá nhiều trong ETF.
4. Index fund
Nói nãy giờ vẫn chưa nói đến Index fund. Vậy Index fund nằm ở đâu?
Nhiều người vẫn so sánh index fund với ETF như thể Index fund khác biệt so với ETF. Tôi cũng là một người trong số đó. Khi nói trong ngữ cảnh đó, Index Fund là viết tắt của Index mutual fund.
Ngược lại, cũng có nhiều người, again trong đó có tôi, so sánh mutual fund với index fund như thể đó là 2 khái niệm độc lập. Khi nói trong ngữ cảnh đó, index fund là viết tắt của index mutual fund. Ngược lại với non-index mutual fund.
Index là phương pháp chọn stock và bond
Sự thật là, index là một phương pháp chọn stock và bond dựa trên một index nào đó. Giống như SP 500 là một index. Russell 2000 là một index. Dow Jones là một index. Index là một nhóm các stock được lựa chọn dựa trên 1 tiêu chí nào đó. Ví dụ như SP 500 là 500 công ty lớn nhất nước Mỹ. Nasdaq là các công ty được mua bán trên sàn giao dịch New York. etc… Khi bạn mua index fund tức là bạn muốn đi theo cái index đó chứ không muốn đội ngũ quản lý lựa chọn stock và bond theo ý của họ. Đội ngũ quản lý ở đây có thể là người hoặc cũng có thể là máy.
Nếu muốn mua theo index, thì cần phải biết rõ giá trị của từng công ty là bao nhiêu để thu mua theo giá trị đó. Ví dụ như công ty A giá trị gấp 50 lần công ty B. Một index có chứa cả A và B cần thu mua stock theo tỷ lệ 50:1, nếu không sẽ không phản ánh đúng tình hình của index. Do một index có hàng trăm, hàng ngàn công ty nên tốt nhất là để cho máy tính toán. Do đó, mặc dù có thể có actively managed index fund, nó không có make sense vì máy làm được việc đó hiệu quả hơn nhiều. Có thể nói 100% index fund là passively managed fund. Nhưng không có nghĩa là 100% passively managed fund đều là index fund.
5. Lời kết
Do index là một cách chọn stock và bond còn mutual fund vs ETF là cách quản lý và mua bán. Index có thể áp dụng cho cả mutual fund và ETF. Index fund chính là mutual fund, nhưng không có nghĩa là mutual fund nào cũng là index. Cũng như Index ETF là ETF nhưng không có nghĩa là bất cứ ETF nào cũng là Index ETF.
Cộng chung vào khái niệm passively managed index vs passively managed non-index, chúng ta có 6 loại chính khi nói đến mutual fund, etf, và index – Mutual Fund vs Index Fund vs ETF
Mutual fund:
– Actively managed mutual fund
– Passively managed non-index fund
– Passively managed index fund
ETF:
– Actively managed ETF
– Passively managed non-index ETF
– Passively managed index ETF
Hơi dài dòng chút không biết có giúp ích được cho ai không.
Bài viết của anh Khôi H. Lê được đăng trên Facebook và được đăng lại trên Vietish với sự đồng ý của tác giả.